Nhân khẩu Bougainville

Phần lớn cư dân trên đảo Bougainville là tín hữu Ki-tô giáo, ước tính 70% lá theo Công giáo Rôma và một thiểu số đáng kể theo là Hột Liên hiệp Ki-tô giáo Papua New Guinea từ năm 1975. Rất ít các cư dân phi bản địa còn ở lại do các cuộc nội chiến.

Ngôn ngữ

Có một số ngôn ngữ bản địa được sử dụng tại tỉnh Bougainville. Chúng thuộc cả Ngữ hệ Nam ĐảoNhõm ngôn ngữ Papua.

Ngôn ngữ Nam Đảo được sử dụng rộng rãi nhất là tiếng Halia cùng các phương ngữ của nó, được sử dụng trên đảo Buka và bán đảo Selau ở Bắc Bougainville. Các ngôn ngữ Nam Đảo khác gồm có Nehan, Petats, Solos, Saposa/Taiof, Hahon và Tinputz, tất cả được nói ở một phần tư phía bắc của Bougainville, Buka và các đảo xung quanh. Các ngôn ngữ này có quan hệ gần gũi. Banoni và Torau là các ngôn ngữ Nam Đảo không có quan hệ gần gũi với các ngôn ngữ đã kể ở trên, chúng được nói tại các vùng ven biển ở trung và nam Bougainville. Tại các đảo san hô vòng lân cận như quần đảo Mortlock, có một ngôn ngữ Polynesia.

Nhóm ngôn ngữ Papuan bị giới hạn tại đảo chính Bougainville. Các ngôn ngữ thuộc nhóm này bao gồm tiếng Rotokas, một ngôn ngữ với một vốn âm vị rất nhỏ, Eivo, Telei (Buin), Keriaka, Nasioi (Kieta), Nagovisi, Korokoro Motuna (Siwai), Baitsi (đôi khi được coi là một phương ngữ của tiếng Korokoro Motuna) Uisai (đôi khi được coi là một phương ngữ của tiếng Telei) và các ngôn ngữ khác. Chúng tạo thành các nhõm ngôn ngữ Bắc Bougainville và Nam Bougainville.

Không một ngôn ngữ nào được trên 20% dân cư nói, và các ngôn ngữ lớn là Nasioi, Korokoro Motuna, Telei, và Halia lại được phân thành các phương ngữ và không phải là luôn có thể hiểu lẫn nhau. Để trao đổi, hầu hết người Bougainville sử dụng Tok Pisin như một ngôn ngữ chung, và ít nhất tại khu vực ven biển, Tok Pisin thường được dạy cho trẻ em trong một môi trường song ngữ. Tiếng Anh và Tok Pisin là các ngôn ngữ thương mại và hành chính chính thức.